.
QUYỂN NĂM
KHUYẾN THIỆN
Lời khuyến thiện của Ông “Vô Danh Cư Sĩ”
Đây là quyển thứ năm mà Đức Thầy đã viết
năm 1941 tại Chợ Quán (776 Câu).
Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,
Theo đòi nghiên bút luận bàn tục, Tiên.
Ta là cư sĩ canh điền,
Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành.
Xa nơi tranh đấu lợi danh,
Giữ lòng thanh tịnh tánh lành trau tria.
Gắng công trì niệm sớm khuya,
Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê.
Kiếm người lương thiện dắt về Tây phang.
Dạy khuyên những kẻ ngỗ ngang,
Biết câu Lục tự gìn đàng Tứ ân.
Ở trần xử trọn nghĩa nhân,
Quyết làm tôi Phật gởi thân Liên Đài.
Cầu cho mối đạo hoằng khai,
Cầu cho trăm họ Bồng Lai được gần .
Sớm về cõi Phật an thân,
Kẻo kiếp phong trần dày gió dạn sương.
Phật đài phưởng phất mùi hương,
Cúi đầu đảnh lễ cậy nương đức mầu.
Từ bi oai lực nhiệm sâu,
Độ con thoát chốn ưu sầu trần ai.
Nam Mô Thích Ca Như Lai,
Ta Bà Giáo Chủ xin Ngài chứng minh.
Dưới đây lược tả sách kinh,
Cho trong nam nữ hữu tình thì coi.
Lời lành của Phật truyền roi,
Đọc qua suy nghiệm xét soi chánh tà.
THI
Tiếng kệ từ bi quá diệu trầm,
Diệt lòng tham vọng diệt thinh âm.
Trần gian say đắm theo màu sắc,
Tịnh độ giác thuyền trị dục tâm.
Phải rõ nghiệp duyên trần cấu tạo,
Nghe rành chánh pháp thoát tà dâm.
Phù sanh nhược mộng đời lao khổ,
Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm.
Hào quang chư Phật rọi mười phương,
Đạo pháp xem qua chớ gọi thường.
Chuyên chú nghĩ suy từ nét dấu,
Cố công gìn giữ tánh thuần lương.
KỆ
Lòng quảng ái xót thương nhân chủng,
Buổi lố lăng Phật Giáo suy đồi.
Kẻ tu hành ai nở yên ngồi,
Mà sớm kệ chiều kinh thong thả.
Mình đã gặp con thuyền Bát Nhã,
Có lý nào ích kỷ tu thân?
Phật Tổ xưa còn ở nơi trần,
Ngài gắng sức ra công hoằng hóa.
Nền Đại Đạo lưu thông khắp cả,
Bực Tiên hiền đều trọng Phật gia.
Rèn dân bằng giáo thuyết bình hòa,
Giống bác ái gieo sâu vô tận.
Sau nhằm buổi phong trào tân tấn,
Đua chen theo vật chất văn minh.
Nên ít người khảo xét kệ kinh,
Được dắt chúng hữu tình thoát khổ.
Thêm còn bị lắm phen dông tố,
Lời tà sư ngoại đạo gieo vào.
Cho nhơn sanh trong dạ núng nao,
Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ.
Dùng thế lực dùng nhiều mánh khóe,
Cám dỗ người đặng có khiến sai.
Chúng nằm không hưởng của hoạnh tài,
Để khốn khổ mặc ai trối kệ.
Mắt thấy rõ những điều tồi tệ,
Tai thường nghe lắm giọng ru người.
Thêm thời nầy thế kỷ hai mươi,
Cố xô sệp thần (thánh) quyền cho hết.
Người nhẹ dạ nghe qua mê mết,
Rằng: nên dùng sức mạnh cạnh tranh.
Được lợi quyền lại được vang danh,
Bài xích kẻ tu hành tác phước.
Làn sóng ấy nhiều người đón rước,
Dục dân tâm sôi nổi tràn trề.
Cổ tục nhà phỉ báng khinh chê,
Cho tôn giáo là mùi thuốc phiện.
Ai nếm vào ắt là phải nghiện,
Chẳng còn lo trang võ đấu chinh.
Lấy sắc thân dẹp nỗi bất bình,
Bỏ đức tính của câu nhơn quả.
Dầu ai có bền gan sắt đá,
Cũng động lòng trước cảnh ngửa nghiêng.
Đạo diệu mầu gặp lúc truân chuyên,
Phận môn đệ phải lo vun quén.
Tằm sức nhỏ còn làm nên kén,
Người không lo có thẹn hay chăng?
Cả tiếng kêu cùng khắp chư tăng,
Với tín nữ thiện nam Phật Giáo.
Nên cố gắng trau thân gìn Đạo,
Hiệp cùng nhau truyền bá kinh lành.
Làm cho đời hiểu rõ thinh danh,
Công đức Phật từ bi vô lượng.
Đồng dẹp bớt âm thinh sắc tướng,
Lo chấn hưng Phật Pháp mới là.
Nói cho đời hiểu Phật Thích Ca,
Lòng tự giác xả thân tầm Đạo.
Ta cũng chẳng hoàn toàn thông thạo,
Nhưng phân cùng bổn đạo xa gần.
Có một điều già trẻ ân cần,
Là phải biết nguyên nhân Phật Giáo.
Hồi thế kỷ khoảng trong thứ sáu,
Trước kỷ nguyên tây lịch thời xưa.
Pháp Giáo chưa biệt lập tam thừa,
Thuở Trung Quốc nhà Châu Chiêu Đế.
Bên Ấn Độ thành Ca Tỳ La Vệ,
Có đức vua Tịnh Phạn nhơn từ.
Khắp thần dân lạc nghiệp an cư,
Trên chúa thẳng tôi ngay phò tá.
Đức Hoàng Hậu Ma Da phong nhã,
Sắc đẹp dường ngọc thốt hoa cười.
Một hôm kia vẻ mặt vui tươi,
Đến trước bệ tâu cùng Thánh thượng.
Rằng: Thần thiếp nhờ ơn chung hưởng,
Của hoàng gia cũng được vinh quang.
Kể từ nay thiếp muốn an nhàn,
Dưỡng tâm trí lần xa thế trược.
Chẳng phiền kẻ hầu sau đón trước,
Chỉ trừ người ý hiệp tâm đầu.
Xin một điều ở chốn long lâu,
Tập đức tánh khoan dung đại độ.
Tránh tất cả những điều thô lỗ,
Chẳng ưa gần kẻ bạo ngang tàng.
Thiếp cuối đầu ngưỡng vọng thiên nhan,
Phê cho thiếp những điều xin ấy.
Vua nghe xong vội vàng đứng dậy,
Bèn chuẩn y tỏ ý vừa lòng.
Bà tâu thêm ở trước đền rồng,
Xin Thánh thượng bao dung kẻ khó.
Lòng yêu dân ví như con đỏ,
Tội giảm tha, đói giúp cơm tiền.
Cứu dân nghèo trong lúc đảo điên,
Lấy đức rộng bủa trong bá tánh.
Vua hứa chịu giúp người đói lạnh,
Bà lui về cung điện nghỉ ngơi.
Đêm trăng thanh gió mát thảnh thơi,
Tiết hòa thuận khắp nơi hoa nở.
Đức Hoàng hậu trong lòng hớn hở,
Giấc chiêm bao bà thấy lạ lùng.
Bạch tượng từ ở chốn không trung,
Bỗng sa xuống mình bà hối hả.
Vừa tỉnh giấc mơ tiên mới lạ,
Khắp phòng huê thơm nức mùi hương.
Bà rảo chơn bèn bước ra vườn,
Truyền thị vệ thỉnh vua lai đáo.
Vua y lời đến nơi hoa thảo,
Lại gần bà sao rất quái kỳ.
Tay chơn bèn run rẩy một khi,
Muốn quì xuống mắt dường tăm tối.
Tiếng Thần Tiên trên không ca trổi,
Rằng ta mừng vua hữu thiện căn.
Sắp có con thế giới chẳng bằng,
Sau người ấy lập nên Đạo cả.
Vua nghe xong cúi đầu bái tạ,
Liền phán cùng hoàng hậu Ma Da.
Có việc chi vội vã dời ta,
Khá nói lại đầu đuôi tường tất.
Bà thuật rỏ chiêm bao trong giấc,
Xin vua vời ít kẻ bàn giùm.
Các thầy bàn được lịnh vào cung,
Nghe xong xả tâu rằng điềm quí.
Ngày thắm thoát đông qua hạ chí,
Bà trổ sanh thái tử đẹp tươi.
Mặt trang nghiêm khí phách hơn người,
Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ.
Họ Thích Ca từ đây cũng ngỡ,
Sẽ có người nối nghiệp hoàng gia.
Liền đặt tên là Sĩ Đạt Ta,
Cả triều chính treo hoa yến ẩm.
Có nhà sư cách thành mấy dặm,
Thường ở ăn trong sạch hiền từ.
Lòng thẳng ngay chẳng có vị tư,
Đời thanh tịnh gìn theo đạo lý.
Ông lại được Thần Tiên dẫn chỉ,
Hiểu thiên cơ thấu mối diệu huyền.
Ông là người Bà la môn tiên,
A Tư Đà Tiên hiền tên lão.
Thời buổi ấy vua ưa người Đạo,
Bèn vào chầu tâu trước bệ rồng.
Xin vua cho ông bước vào trong,
Được yết kiến tử hoàng luôn thể.
Ông xem xong bỗng liền sa lệ,
Vẻ mặt buồn chẳng thốt ra lời.
Thấy lạ lùng vua bước đến nơi,
Liền phán hỏi bảo ông phân rõ.
Trước cung điện ông liền bày tỏ,
Rằng tử hoàng chừng được thành nhơn.
Lìa đền đài khổ cực chẳng sờn,
Tìm Đạo lý dắt dìu sanh chúng.
Ngài sẽ được thế gian ca tụng,
Chắc phần Ngài quả Phật vẹn tròn.
Buồn vì tôi tuổi lớn sức mòn,
Chẳng sống đặng nghe lời Phật thuyết.
Cả hồng trần đau thương thống thiết,
Nhờ Ngài mà diệt nẻo luân hồi.
Vô phước nên tủi bấy phận tôi,
Chớ chẳng có điều chi lo ngại.
Đức hoàng hậu đến ngày thứ bảy,
Dứt nợ trần nên vội qui tiên.
Có bà dì thay thế mẹ hiền,
Giùm săn sóc trông nom Thái tử.
Khi lớn lên cho người dạy chữ,
Lúc vào trường chẳng học mà thông.
Buổi trưởng thành vua vẫn hằng mong,
Cho Thái tử đừng lìa cung điện.
Hội triều đình các quan lựa tuyển,
Nàng Du Gia được chọn kết hôn.
Vua nghĩ rằng muốn tâm yên ổn,
Chọn cung phi mỹ nữ làm trò.
Cất đền đài lộng lẫy đẹp to,
Ngày ca múa đêm bày lơi lả.
Lòng thái tử cũng không xiêu ngả,
Ra khỏi đền du ngoạn một khi.
Buổi đầu tiên gặp những chuyện gì,
Gặp cụ lão tay nương gậy chống.
Ngài xem qua lòng bèn cảm động,
Lần thứ hai thấy kẻ ốm đau.
Xét cõi trần trong dạ héo xào,
Chi xiết nỗi núng nao cõi tạm.
Lần thứ ba xe lìa khỏi trạm,
Được trông nhìn kẻ chết đang khiêng.
Về đền đài cảm xúc buồn riêng,
Hằng để trí tầm phương giải thoát.
Lần thứ tư vừa đi dạo mát,
Bỗng gặp người tốt đẹp trang nghiêm.
Nào dè đâu Trời đã ứng điềm,
Giả tăng sĩ gợi lòng thái tử.
Ngài hiểu rõ ấy là phận sự,
Phải xuất gia tầm Đạo mau mau.
Liền quày xe trở lại lai trào,
Xin Vương phụ lánh xa mùi thế.
Vua buồn thảm dùng lời khóc kể,
Rằng: Cha già biết cậy nhờ ai.
Khuyên con nên ở chốn điện đài,
Lo nối nghiệp sau tu chẳng muộn.
Lòng Thái tử quyết theo ý muốn,
Thừa đêm khuya lén trốn vào rừng.
Lìa cha già, vợ đẹp, con cưng,
Thân chẳng sá xông pha bờ bụi.
Ngài thuở ấy nên mười chín tuổi,
Tâm đại hùng cương quyết tu trì.
Trải bao phen lao khổ xiết chi,
Sau Ngài đến Rạch Ni Liên Thuyền.
Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham thiền,
Ngồi khổ hạnh sáu năm bên ấy.
Đạo gần đắc Ma vương theo khuấy,
Dùng thần thông nghị lực dẹp tan.
Ấy mới vừa đắc Đạo hoàn toàn,
Và lần bước phô trương độ chúng.
Ngài bèn xét ở trong Phật chủng,
Các chúng sanh đều có như ta.
Bị vô minh vọng tưởng vạy tà,
Nên quay lộn Ta bà cõi khổ.
Lòng thương chúng thuyết phương Tịnh độ,
Đặng dắt dìu tất cả chúng sanh.
Nếu như ai cố chí làm lành,
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật Quốc.
Cả vũ trụ khắp cùng vạn vật,
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc sanh.
Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng hành,
Được cứu cánh về nơi an dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng,
Thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi.
Xét cõi trần sống khổ giạt trôi,
Vô lượng thứ ở trong thế giái.
Lời Phật thuyết ta xin nhắc lại,
Ta bà khổ, ta bà lắm khổ.
Có bao người xét cho tột chỗ,
Tịnh độ vui, Tịnh độ nhàn vui.
Cảnh thanh minh sen báu nặc mùi,
Nào ai rõ cái vui triệt đáo.
Vì phần Ta rất yêu mến Đạo,
Chẳng nệ chi trí siển tài sơ.
Lấy lời xưa kết lại ít tờ,
Cho thiện tín rỗi nhàn xem xét.
Dứt mê tâm dứt điều hờn ghét,
Rán cần chuyên niệm Phật làm lành.
Thường trau giồi chí hướng cao thanh,
Cho khỏi thẹn con lành Phật Giáo.
Đức Thích Ca từ xưa dạy bảo:
Khổ Ta bà nhiếp lại tám phần.
Bởi chúng sanh mang lấy xác thân,
Khổ thứ nhứt sự Sanh là gốc.
Vào bụng mẹ chung quanh bao bọc,
Có khác nào ở chốn ngục tù.
Buổi mẹ đau huyết kiệt hình thu,
Lúc mẹ đói dường treo lỏng bỏng.
Ta kể sơ những điều bi thống,
Mẹ no cơm chật chội khó khăn.
Khi ra đời đau đớn vô ngằn,
Cất tiếng khóc nếm mùi dương thế.
Đoạn Lão khổ thứ nhì xin kể,
Từ trẻ thơ đến tuổi thành nhân.
Hết tráng cường đến lúc mòn thân,
Răng lần rụng lưng cong gối mỏi.
Nằm đi đứng đỡ nưng chống chỏi,
Thử nghĩ coi lao nhọc cùng chăng?
Đoạn thứ ba ma Bịnh làm nhăng,
Đeo hành phạt xác thân ô uế,
Bởi thời thế chuyển xây biến thể,
Thêm uống ăn chẳng được điều hòa.
Là nguyên nhân căn bịnh phát ra,
Thân trằn trọc hôn mê nhức nhối.
Cơn bịnh hoạn càng không tránh nổi,
Còn mang thêm tật nọ tật kia.
Rồi từ đây đến lúc chia lìa,
Đoạn Tử khổ thứ tư phân giải.
Trên dương thế hữu hình tắc hoại,
Có sanh ra khổ hải đâu chừa.
Trải bao phen dải gió dầm mưa,
Ngày kiệt sức huyễn thân tan nát.
Gần hấp hối tâm thần xao xác,
Trí vẩn vơ kinh sợ vô cùng.
Rồi mòn lần đến lúc lâm chung,
Giã cõi tạm theo đường tội phước.
Nhiều phương thuốc ngừa sau ngăn trước,
Mà cũng không thoát luật tuần hườn.
Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn,
Chẳng trốn lánh tử thần cho khỏi.
Đoạn thứ năm nghĩ suy tìm tỏi,
Cầu chẳng thành những việc thích ham.
Người trên đời ai cũng lòng tham,
Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của.
Nào vợ đẹp, hầu xinh, là lụa,
Không được thì bực tức ưu phiền.
Cả tâm thần điêu đứng đảo điên,
Vậy có phải khổ hay là chẳng?
Đoạn thứ sáu Biệt Ly cay đắng,
Người mình thương bỗng lại chia lìa.
Khi khóc than nước mắt đầm đìa,
Lúc trông nhớ ruột tầm chua xót.
Ở thế gian mấy ai thoát lọt,
Nợ gia đình đeo đắm căn duyên.
Cơn nguy nghèo thân thể truân chuyên,
Kẻ lưu lạc người chờ trông mãi.
Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân ái,
Đến xong đời để lại sầu ưu.
Cái khổ nầy dầu lắm trí mưu,
Cũng chung chịu như người tăm tối.
Đoạn thứ bảy khổ Oan Tắng Hội,
Hễ thương nhau tất có ghét nhau.
Thường tranh đua tiếng thấp lời cao,
Chẳng nhẫn nhịn thành ra cừu oán.
Muốn tránh xa đừng trông tâm dạng,
Cứ gặp nhau mắt tựa kim châm.
Làm cho người đau đớn âm thầm,
Khổ như thế diễn ra mãi mãi.
Đoạn thứ tám ưu sầu lo ngại,
Cuộc tang thương dâu bể cảnh trần.
Nghèo thì lo một nỗi nợ nần,
Lo đau đói liệu cơn nhà rách.
Buồn duyên số phận mình nhơ sạch,
Rầu gia đình chúng bạn khinh cười.
Giàu thì lo chen lấn với người,
Miễn cho được đầy rương đầy tủ.
Của dương thế góp tom bảo thủ,
Sợ gian phi trộm cướp rình mò.
Lo tước quyền cho được thơm tho,
Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.
Ôi! cả sang hèn chẳng ai thong thả,
Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say.
Chẳng tu thân đặng dựa Phật Đài,
Cho thong thả hưởng mùi sen báu.
Thần Thức nhập Thai Sen tinh hảo,
Nên khỏi màng lo nỗi khổ sanh.
Thân thì Thân Công Đức hiền lành,
Bất di dịch khỏi vì khổ lão.
Thể Thanh Tịnh thường không huyên náo.
Hết lo toan nắng lạnh gió mưa.
Khổ bịnh kia bởi đó mà chừa,
Ta thoát cuộc lao đao vì nó.
Đường sanh mạng Phật, ta đồng thọ,
Tánh an nhiên bất diệt trường tồn.
Tử thần kia đâu dám dắt hồn,
Thoát luân chuyển khỏi đeo khổ tử.
Cuộc y thực muốn chi đủ thứ,
Không nhọc nhằn lo việc sanh nhai.
Trí yên nhàn nhìn cảnh Phật Đài,
Khỏi quả khổ mưu cầu bất đắc.
Cả Hải Chúng thảy đều vững chắc.
Toàn dân lành đâu có đắn đo,
Dứt ái ân quyến thuộc chuyện trò.
Thoát sống khổ thương yêu, ly biệt,
Chữ Hòa Thuận kể sao cho xiết.
Tâm đồng nhau thượng thiện vui vầy,
Cảnh như như chẳng có đổi thay.
Không màng biết phân chia nhơn ngã.
Sẵn vị ngôi rành phân thượng hạ,
Khỏi khổ câu oán ghét gặp nhau.
Thân tâm thường trụ hết rạt rào,
Chất thô trược tiêu tan mất cả.
Cõi Tịnh độ lắm điều thanh nhã,
Khổ, buồn, rầu, lo, sợ chẳng còn.
Chốn Ta bà tim lụn dầu mòn,
Thân tứ đại của người cũng thế.
Mau thức tỉnh tu thân kẻo trễ,
Đến tội rồi mới hối muộn màng.
Chi cho bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới luật nghe kinh trọng Phật.
Đến lâm chung quả lành đâu mất,
Cõi Tây Phương chư Phật đợi chờ.
Việc tu thân thiện tín hẫng hờ,
Chừng họa đến e cho khó tránh.
Môn Tịnh Độ là phương cứu cánh,
Rán phụng hành kẻo phụ Phật xưa.
Lòng từ bi chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền giác rước đưa sanh chúng.
Trong một nước nhân tài hữu dụng,
Kẻ tu hành đa phước thì nên.
Quyết trau thân tánh hạnh cho bền,
Niềm ơn nghĩa toan đền dứt nợ.
Ao sen báu Tây Phương đua nở,
Chờ chúng sanh niệm Phật chí tâm.
Rán tu cho quỉ khiếp thần khâm,
Được tâm phát Bồ Đề vững chắc.
Giữ đừng cho Ma Vương dẫn dắt,
Thường nhớ câu Đại Lực Đại Hùng.
Thắng Thất Tình giữ vẹn Đạo Trung,
Trừ Lục Dục chớ cho ô nhiễm.
Thập tam Ma diệt bằng trí kiếm,
Rứt xong rồi vô sự thảnh thơi.
Biển hồng trần lao lý diệu vơi,
Xô đẩy mãi trong vòng Ngũ Trược.
Thân hôi tanh muỗi, ruồi đón rước,
Thêm nhọt u, ghẻ lác, phong cùi.
Đâu lúc nào toàn vẹn yên vui,
Là kiếp Trược, Ta xin kể trước.
Dòm việc quấy ngắm điều bạo ngược,
Mắt trông vào những chỗ đê hèn.
Nào được xem cảnh báu đài sen,
Nghĩa Kiến Trược giải ra như vậy.
Trí vẫn vơ tưởng đó nhớ đây,
Thiết mưu kế toan bề thắng thối.
Ghi thù oán chưởng điều đáp đối,
Nên ma Phiền Não Trược đắm say.
Chuyển luân trong nhơn vật các loài,
Căn mờ ám làm điều dại dột.
Chúng sanh Trược Ta đà kể nốt,
Còn thứ năm là Mạng Trược Trung.
Số giàu sang, họa phước, bần cùng,
Giàu hoa nguyệt thung dung cẩu thả.
Ưa đẹp mắt mến điều mới lạ,
Sang oai quyền, hối lộ gần xa.
Nghèo a dua, bợ đỡ nịnh tà,
Khó trộm cướp cũng là nhơ xấu.
Nguyện cùng Phật dứt duyên trần cấu,
Phải trừ thêm Thập Ác huyễn thân.
Khuyên nữ nam suy nghiệm ân cần,
Ác nơi khẩu nhứt là Lưỡng Thiệt.
Với người nầy dùng lời tha thiết,
Đến kẻ kia đâm thọc cho gây.
Khá chừa đi hương đảng bớt rầy,
Dùng sự thiệt giải bày tâm trí.
Người choảng nhau tại mình gia vị,
Mà cũng không hưởng được lợi danh.
Sau rõ ra chúng lại ghét ganh,
Chiêu cảm quả bất lành thêm nữa.
Ác thứ nhì Ỷ ngôn chất chứa,
Đợi cho người lầm lỗi xéo giày.
Của tiền nhiều tự phụ rằng hay,
Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới.
Lắc léo chi có ba tấc lưỡi,
Quan ỷ khôn mạt sát dân ngu.
Nghèo ỷ lanh láo xược lu bù,
Ôi! thấy thế lòng đau tợ cắt.
Khuyên bá tánh giữ gìn cho chặt,
Đừng để cho quỉ dắt đường cong.
Dùng từ ngôn nói tận đáy lòng,
Dầu trên dưới cũng không mấy khác.
Chúng vô phước đời nầy dốt nát,
Người khôn ngoan chỉ dẫn mới là.
Lời trang nghiêm êm ái thốt ra,
Đừng bao biếm mới là nhơn thiện.
Tới Ác Khẩu thứ ba bày biện,
Tiếng tục tằn thô lỗ hung hăng.
Nào chưởi cha, mắng mẹ lăng xăng,
Chẳng kể đến luân thường thảo hiếu.
Hăm đánh giết những người hèn yếu,
Hiếp xóm chòm cô bác chẳng kiêng.
Trong gia đình chưởi rủa liên miên,
Hết dương thế kêu sang Thần Thánh.
Chẳng kiêng nễ Phật Trời thượng cảnh,
Cõi Long cung mời thỉnh tối ngày.
Đời ám u tội trạng thảm thay,
Khuyên bá tánh bá gia rán bỏ.
Gương tổ phụ còn roi lại đó,
Sao không theo nề nếp gia phong.
Chư Thánh Thần đâu có mất lòng,
Mà kêu réo Đông, Tây, Nam, Bắc?
Mấy câu trên toàn là ròng rặc,
Những đàn bà khe khắt cháu con.
Kể từ nay phải giữ cho tròn,
Không chừa dứt ắt mang tai ách.
Lựa lời tiếng dịu dàng trong sạch,
Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
Tích thiện thì thường có phước dư,
Bằng tích ác họa ương đeo đắm.
Ác Vọng Ngữ thứ tư cũng cấm,
Nói thêm thừa huyễn hoặc đủ điều.
Ghét người thời kiếm chuyện dệt thêu,
Thương viện lẽ thấp cao bào chữa.
Đời bất công mấy ai xem sửa,
Trên điêu ngoa dưới chẳng phục tòng.
Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công,
Mà ăn ở nói năng chơn chất.
Phật từ bi độ trong nhơn vật,
Là luật kinh dạy rất tinh tường.
Nếu chẳng nghe hồn vướng tai ương,
Chừng ấy mới kêu mời khó rước.
Người dương thế chẳng ưa bốc xước,
Phật Thần nào gần kẻ xảo ngôn.
Đã tu hành đừng có bôn chôn,
Tưởng hay giỏi khoe khoang tài cán.
Người hiểu rành mới càng thêm chán,
Chi bằng ta bỏ lối trớ trêu.
Nói với ai cũng phải lựa điều,
Đừng tráo chác cho người khinh dễ.
Ác Tà Dâm thứ năm càng tệ,
Chúa hôn mê chiếm đoạt thê thần.
Làm đảo huyền tất cả quốc dân,
Tôi bất chánh hoàng cung dâm loạn.
Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng,
Từ xưa nay trời đất đâu dung.
Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,
Quan lấn thế dâm ô dân khó.
Trai liều lĩnh điều nầy nên bỏ,
Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn.
Gái lẳng lơ tiếng quyển lời đờn,
Hoa có chủ đèo bồng tình mới.
Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi,
Bỏ những điều điếm nhục tông môn.
Đứng nam nhi học lấy điều khôn,
Lòng trung hiếu gìn theo đạo lý.
Hàng phụ nữ gương xưa nối chí,
Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền.
Niệm Phật mà gây lấy thiện duyên,
Cho đẹp mặt Tổ tiên nòi giống.
Thờ Phật Đạo tỉnh cơn ác mộng,
Thoát mê đồ thường phóng quang minh.
Rán hiểu rành tiếng kệ lời kinh,
Ác thứ sáu ấy là Đạo Tặc.
Lấy của người sắm ăn sắm mặc,
Chẳng kể công nước mắt mồ hôi.
Phá lương dân dạ luống bồi hồi,
Ngày làm lụng đêm lo gìn giữ.
Trốn pháp luật tập tành đủ thứ,
Nào đào tường khoét vách, khuân đồ.
Tội chập chồng đâu biết ở mô,
Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.
Nay đuốc huệ Từ Bi đã rọi,
Vào thâm tâm những kẻ gian phi.
Hãy tu thân chừa thói vô nghì,
Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.
Luật nhơn quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong thả.
Ác thứ bảy Sát Nhơn gây vạ,
Tánh hung hăng đâm chém chặt bầm.
Chất chứa điều hung dữ trong tâm,
Chờ đắc thế ra tay hạ sát.
Viết đến đây động lòng rào rạt,
Gẫm nhiều người bội bạc thâm ân.
Nào kể chi là đạo Quân Thần,
Tôi giết chúa, con đành sát phụ.
Lúc nguy cơ tớ mong hại chủ,
Trò giết Thầy tội ấy đáng không?
Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
Niềm huynh đệ cùng nhau xâu xé.
Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
Giành của tiền cốt nhục giết nhau.
Tranh lợi danh giết lẫn đồng bào,
Tình nhơn loại phân chia yểm bách.
Giết sanh vật đầy lòng kiêu cách,
Tưởng rằng mình như thế là ngoan.
Khuyên bá gia bá tánh việt đàn,
Chớ sát hại mạng người như thế.
Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
Gẫm Thánh Thần đâu có tư riêng.
Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
Hoặc hiện kiếp làm điều bạo ác.
Phải ăn năn phước điền tạo tác,
Lo thuốc thang khẩn vái Phật Trời.
Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,
Xuống phước rộng từ bi hỉ xả.
Đấng Thần Minh công bình trực dạ,
Đâu ăn lo đổi họa làm may.
Mở tâm linh nghĩ đến đoạn nầy,
Điều họa phước ấy cơ báo ứng.
Chẳng biết thân còn toan chứa đựng,
Quả bất lành chưa trả vay thêm.
Cầu cho đời sóng lặng gió êm,
Đặng bá tánh an nhàn tu niệm.
Ác thứ tám là Lòng Tham Hiểm,
Muốn bao gồm của thế một mình.
Tham nhà cao, cửa rộng, thân vinh,
Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.
Thấy của người thèm khô nước miếng,
Tính làm sao lường gạt lấy đi.
Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,
Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.
Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa,
Của thế trần như mật dính dao.
Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào,
Chừng đứt lưỡi mới là hối hận.
Tham của tạm làm điều tàn nhẫn,
Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.
Tham tiền tài thường vướng nạn eo,
Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.
Lúc tận số nằm trơ một xác,
Gẫm kim tiền bội bạc bất tài.
Không làm cho ta được sống dai,
Lại chẳng bước tiễn đưa một bước.
Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,
Lo vun trồng cội phước về sau.
Muốn trừ tham phải liệu cách nào,
Phải bố thí diệt lòng ích kỷ.
Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
Vật ở trần như bọt nước làn mây.
Thân ta còn rày đó mai đây,
Của ấy cũng khi tan khi hiệp.
Ác thứ chín Hận Sân luận tiếp,
Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.
Nổi lôi đình đâu có định chừng,
Cho ta biết mà toan giữ trước.
Tánh sân nộ thường làm bạo ngược,
Nên loài người ở cõi thế gian.
Giận hờn nhau thù oán dẫy tràn,
Mới có cuộc tranh tài đấu lực.
Hơn tự đắc, khoe khoang, dõng sức,
Phải bị người hềm khích ghét ganh.
Thua hổ ngươi làm chuyện bất lành,
Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.
Trong cơn giận kể gì nhơn đạo,
Tỷ như con cọp dữ trên rừng.
Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng,
Phân từ mảnh mới là thỏa dạ.
Diệt được nó tâm trần thong thả,
Ta thường nên tập tánh khoan dung.
Thiệt hành đi đừng có ngại ngùng,
Tha thứ kẻ lỗi lầm ngu xuẩn.
Và nhẫn nhịn đừng ham tranh luận,
Khỏi mất lòng tất cả mọi người.
Tánh thuần lương vẻ mặt vui tươi,
Vậy mới đáng tín đồ Phật Giáo.
Nay ta đã quy y cầu Đạo,
Gây gổ là trái thuyết từ bi.
Ác thứ mười đoạn chót Mê Si,
Nguyên tăm tối từ hồi vô thỉ.
Màn vô minh che mờ căn trí,
Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.
Lo huyễn thân vật chất kém hơn,
Chẳng tìm biết tinh thần đạo đức.
Dệt lưới nghi đeo điều phiền phức,
Bịn rịn đời cực khổ tang thương.
Khi nói làm ít chịu suy lường,
Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác.
Diệt mê si phải nương thuyền giác,
Muôn việc làm chính trực khôn ngoan.
Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn,
Làm ngu muội đọa thân uổng kiếp.
Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
Lóng nguồn chơn Phật tiếp dẫn cho.
Trồng cây lành vị quả thơm tho,
Tuy không thấy mà sau chẳng mất.
Dầu ai có cười ta khờ khật,
Cũng đừng phiền xao lãng chơn tâm.
Mong tiếng kêu thấu đến Tòng lâm,
Cùng thiện tín bá gia hưởng ứng.
Muốn Phật Giáo từ đây bền vững,
Đừng riêng lo lợi dưỡng một mình.
Nếu xuất gia thì phải hy sinh,
Cả vật chất tinh thần lo Đạo.
Chớ giả dối mà mang sắc áo,
Mượn bồ đề, chuỗi hột lòe người.
Làm cho dân khinh dễ ngạo cười,
Tội lỗi ấy luật nào dung thứ.
Tu còn ham chay to đám bự,
Đặng thế gian dưng cúng bạc tiền.
Dối rằng: lo tu bổ chùa chiền,
Mà làm của xài riêng cho thỏa.
Bảo làm sao dân không sa ngã,
Nghe lời rù tông nọ phái kia.
Cả tăng đồ trong nước chia lìa,
Riêng pháp bảo, riêng chùa, riêng Phật.
Trong bá tánh sầu thành chất ngất,
Mãi nghi nan chẳng biết đàng nào.
Lòng mến yêu chẳng nệ công lao,
Mượn bút mực đôi lời trần thuyết.
Tùy thiện tín hiểu Ta giả thiệt,
Làm hay không chẳng dám ép nài.
Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,
Đồng tiếp dẫn chúng sanh giải thoát.
KỆ:
Đêm thanh hiên nguyệt dựa kề,
Nhìn xem thế sự não nề tâm can.
Từ Ta nương chốn Phật đàng,
Dứt tâm trần cấu chẳng màng vinh huê.
Trần hoàn thiện tín còn mê,
Thêm lời giục thúc gọi về đàng tu.
Dốc lòng vạch ngút mây mù,
Đặng dìu bá tánh đường tu chen vào.
Lời Thầy cạn tỏ âm hao,
Để truyền hậu thế vàng thau lọc lừa.
Tu cầu thuận gió hòa mưa,
An hòa nhơn vật phước thừa trời ban.
Tu cầu thoát chốn gian nan,
Cầu trong chư quốc chư bang giao hòa.
Tu cầu yên nước lợi nhà,
Cửu huyền Thất tổ Diêm La thoát hình.
Tu cầu Phật hóa tánh tình,
Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu dao.
Tu cầu cửa Phật đặng vào,
Gót sen thong thả xiết bao thanh nhàn.
Tu cầu bệnh tật tiêu tan,
Từ bi hỉ xả Phật ban phép lành.
Tu cầu thoát khỏi tử sanh,
Nương theo Phật Quốc lời lành hằng nghe.
Cõi trần đừng đắm ngựa xe,
Đeo tuồng mộng huyễn lập loè sắc hương.
Tu cầu trăm họ hiền lương,
Đồng thinh niệm Phật tai ương chẳng còn.
Tu cầu gia đạo vuông tròn,
Chồng hòa vợ thuận cháu con thảo hiền.
Tu cầu thoát khỏi xích xiềng,
Dựa kề chơn Phật xa miền trần lao.
Tu cầu chóng hết binh đao,
Gặp đời bình trị xiết bao vui vầy.
Mắt nhìn chư Phật đông dầy,
Thành vàng điện ngọc trò Thầy đăng Tiên.
Ai mà muốn đặng phước duyên,
Nghe lời khuyến thiện lòng liền phát tâm.
Tu cho rõ mối huyền thâm,
Quy đầu Phật Pháp khỏi lâm tai nàn.
Phước đức quí hơn bạc vàng,
Những người bạc ác giàu sang ích gì.
Chi bằng ăn ở nhu mì,
Nghe lời Phật Thánh kính vì người trên.
Hiếu trung lòng chớ vội quên,
Sống lo trọn Đạo, thác lên Tiên Đài.
Nam mô miệng niệm hằng ngày,
Lánh lời dua mị học rày kệ kinh.
Trau tâm luyện tánh cho minh,
Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn.
Lóng tai nghe rõ tiếng đờn,
Không dây không phiếm oán hờn cũng không.
Đờn tây rồi lại đờn đông,
Trách trong bá tánh gặp sông quên nguồn.
Phàm trần như chỉ rối cuồn,
Mà còn say đắm theo tuồng lẳng lơ.
Lời lành mắt lấp tai ngơ,
Đua theo vật chất hẫng hờ đàng tiên.
Hố sâu tình dục lại ghiền,
Ghiền cho đến lúc chúng khiêng quan tài.
Nhắm mắt cũng nắm hai tay,
Đâu đem tiền của đem rày hầu non.
Chỉ có tội phước hỡi còn,
Đến nơi thẩm phán cửa son Diêm Đài.
Phước nhiều tiên cảnh lên rày,
Tội nhiều sa đọa nhiều ngày thảm thê.
Chừng ấy mới biết chỉn ghê,
Ăn năn chẳng kịp khó bề tính toan.
Ngày nay sớm đến Phật đàng,
Tu cầu chư Phật cứu an linh hồn.
Tội tiêu phước hưởng trường tồn,
Không còn mắc nẻo dại khôn luân hồi.
Thấy đời khó nỗi yên ngồi,
Thêm lời Thầy nhắc một hồi thấp cao.
Nữ nam muốn rõ âm hao,
Rán trau đức hạnh ngày sau sẽ tường.
Ngôn từ đạo hạnh ý Thầy khuyên,
Hạnh đức ân cần rán tập chuyên,
Thất tổ Cửu huyền nơi chín suối,
Mỉa mai xa lánh sáu đường duyên.
Vô thượng thậm thâm dĩ ý truyền,
Danh ngôn chép để rạch đàng Tiên.
Cư gia Tịnh Độ tâm viên mãn,
Sĩ xuất văn từ dốc dạy khuyên.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
(tam niệm)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT