.
QUYỂN NHÌ
KỆ DÂN
Của Người Khùng
Đây là quyển thứ nhì mà Đức Thầy đã viết
ngày 12 Tháng 9 nămKỷ-Mão (1939)
Tại Hòa-Hảo(476 câu)
Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,
Thấy dân mang sưu thuế mà thương.
Chẳng qua là Nam Việt vô vương,
Nên tai ách xảy ra thảm thiết.
Bạc không cánh đổi thay chẳng biết,
Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn.
Mới mấy năm sao quá hao mòn,
Mùa màng thất đói, đau không thuốc.
Thương hại bấy lê dân đứt ruột,
Thảm vợ con đói rách đùm đeo.
Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo,
Thêm gạo lúa lại tăng giá mắc.
Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,
Máy thiên cơ mỗi phút mỗi thay.
Nẻo thạnh suy như thể tên bay,
Đường vinh nhục rủi may một lát.
Ai phú quí vào đài ra các,
Ta Điên Khùng thương hết thế-trần.
Khuyên chúng sanh chẳng biết mấy lần,
Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo.
Trai trung liệt đáng trai hiền thảo,
Gái tiết trinh mới gái Nam trào.
Lời Thánh Hiền để lại biết bao,
Sao trai gái chẳng coi mà sửa?
Đời tận thế mà còn lần lựa,
Chẳng chịu mau cải dữ về lành.
Làm Phật Nhi phải được lòng thành,
Thì mới đặng vãng-sanh Cực Lạc.
Tương với muối cháo rau đạm bạc,
Nghèo lương hiền biết niệm Di Đà.
Mà mai sau thoát khỏi tinh ma,
Lại được thấy cảnh Tiên nhàn hạ.
Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,
Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.
Coi là coi được Phật được Trời,
Coi phép lạ của Tiên của Thánh.
Cuộc dương-thế ngày nay mỏng mảnh,
Mà sang giàu còn hiếp nghèo nàn.
Phải xả thân tầm Bát Nhã thoàn,
Sau mới khỏi hùm tha sấu bắt.
Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn cầu thiết thiết tha tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ Ma Ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.
Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,
Vọng Cửu Huyền sớm tối mới mầu.
Chữ Nam Mô dẹp được lòng sầu,
Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh.
Ghét những đứa giàu-sang kiêu hảnh,
Thương những người đói rách cơ hàn.
Cảnh phồn hoa khó sánh lâm san,
Sau sẽ có nhiều điều vinh hạnh.
Cõi trần thế hết suy tới thạnh,
Hết lâm nguy đến lúc khải hoàn.
Tuy tu hành chịu chữ nghèo nàn,
Sau đắc đạo gặp điều cao quí.
Mặc bá tánh đời nầy dị nghị,
Ta Điên Khùng mà tánh lương hiền.
Lòng yêu dân chẳng trọng bạc tiền,
Mà dương thế cứ theo biếm nhẻ.
Sau lập Hội thì già hóa trẻ,
Khắp hoàn cầu đổi xác thay hồn.
Đức Ngọc Hoàng mở cửa Thiên môn,
Đặng ban thưởng Phật Tiên với Thánh.
Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh,
Sách Thánh Hiền dạy Đạo làm người.
Xem truyện thơ chẳng biết hổ ngươi,
Mà làm thói Điêu Thuyền, Lữ Bố.
Sau kẻ ấy làm mồi mãnh hổ,
Cảnh núi non nhiều thú dị kỳ.
Nó trọng ai hiền đức nhu mì,
Sát phạt kẻ bội cha phản chúa.
Đến chừng đó thiên la lưới bủa,
Mới biết rằng Trời Phật công bằng.
Nếu dương trần sớm biết ăn năn,
Làm hiền đức khỏi đường lao lý.
Học tả đạo làm điều tà mị,
Theo dị đoan cúng kiếng tinh tà.
Thì sau nầy gặp chuyện thiết tha,
Đừng có trách Khùng Điên chẳng cứu.
Thấy bá tánh nghinh tân yểm cựu,
Học ai mà ngang ngược nhiều lời.
Phụ mẹ cha khinh dễ Phật Trời,
Chẳng có kể công sanh dưỡng dục.
Thương lê thứ bày tường trong đục,
Mặc ý ai nghe phải thì làm.
Lời của người di tịch núi Sam,
Chớ chẳng phải bày điều huyễn hoặc.
Cảnh Thiên Trước thơm tho nồng nặc,
Chẳng ở yên còn xuống phàm trần.
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
Nên chẳng kể tấm thân lao khổ.
Giả quê dốt khuyên người tỉnh ngộ,
Giả bán buôn thức giấc người đời.
Rằng ngày nay có Phật có Trời,
Kẻo dân thứ nhiều người kiêu ngạo.
Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ Mão,
Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng.
Nếu trẻ già ai biết thì dùng,
Chẳng có ép có nài bá tánh.
Nghe Điên dạy sau nầy thơi thảnh,
Đây chỉ đường Cực Lạc vãng sanh.
Đừng có ham lên mặt hùng anh,
Sa địa ngục uổng thân uổng kiếp.
Theo đạo lý nhứt tâm mới kịp,
Ngày nay đà gặp dịp tu hành.
Niệm Di-Đà rán niệm cho rành,
Thì mới được sống coi Tiên Thánh.
Đức Minh Chúa chẳng ai dám sánh,
Xưa mạt Thương phụng gáy non kỳ.
Bởi Võ Vương đáng bực tu mi,
Nay trở lại khác nào đời trước.
Kẻ gian ác bị gươm ba thước,
Nơi pháp tràng trị kẻ hung đồ.
Được thảnh thơi nhờ chữ Nam mô,
Khuyên bổn đạo rán mà trì chí.
Xưa Tây Bá thất niên Dũ Lý,
Huống chi ta sao khỏi tiếng đời.
Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi,
Lao với khổ, khổ lao chẳng xiết.
Ghét bạo chúa là xưa Trụ Kiệt,
Mất cơ đồ lại bị lửa thiêu.
Thương Minh Vương bắt chước Thuấn, Nghiêu.
Lòng hiền đức nào ai có biết,
Thương trần thế kể sao cho xiết.
Mượn xác trần bút tả ít hàng,
Kể rõ ràng những việc lầm than.
Mặc làng xóm muốn nghe thì chép,
Việc tu tỉnh Khùng không có ép.
Cho giấy vàng Điên chẳng có nài,
Lòng yêu dân chẳng nệ vắn dài,
Cho bổn đạo giải khuây niệm Phật.
Việc xảy đến đây truyền sự thật,
Ấy là lời của Phật giáo khuyên.
Rán nghe lời của kẻ Khùng Điên,
Phật, Tiên, Thánh hãy nên trọng kỉnh.
Bịnh ôn dịch cũng đừng mời thỉnh,
Cõi ngũ hành chẳng khá réo kêu.
Hãy gìn lòng chớ khá dệt thêu,
Nói xiên xỏ cũng không no béo.
Đời Nguơn Hạ ngày nay mỏng mẻo,
Khuyên thế trần hãy rán kiêng dè.
Mặc tình ai lên ngựa xuống xe,
Ta chẳng có ham nơi phú qúi.
Trong bổn đạo từ nay kim chỉ,
Đói với nghèo sắp đến bây giờ,
Vì thương đời nên Lão kể sơ,
Cho bá tánh rõ lời châu ngọc.
Nước Nam Việt ai là thằng ngốc,
Người đời nay như ốc mượn hồn.
Chim tìm cây mới gọi chim khôn,
Người hiền đức mới là người trí.
Theo Phật Giáo sau nầy cao quí,
Được nhìn xem Ngọc Đế xử phân.
Lại dựa kề Bệ Ngọc Các Lân,
Cảnh phú quí nhờ ơn Phật Tổ.
Thấy bá tánh nhiều điều tai khổ,
Khùng thương dân nên phải hết lời.
Dạo Lục Châu chẳng có nghỉ ngơi,
Mà lê thứ nào đâu có biết.
Dạy Đạo Chánh vì thương Nam Việt,
Ở Cao Miên vì mến Tần Hoàng.
Trở về Nam đặng có sửa sang,
Cho thiện tín được rành chơn lý.
Trong sáu tỉnh nhiều điều tà mị,
Tu hành mà vị kỷ quá chừng.
Thì làm sao thoát khỏi trầm luân,
Khuyên bổn đạo rán tầm nẻo chánh.
Chừng lập Hội xác thân mới rảnh,
Nếu không thời khó thấy Phật Trời.
Khùng dạy dân chẳng dám nghỉ ngơi,
Đi chẳng kể tấm thân già cả.
Cảnh trần thế mặc ai thong thả,
Chớ lòng Ta chẳng đắm hồng trần.
Có thân thì rán giữ lấy thân,
Để đến việc ăn-năn chẳng kịp.
Yêu những kẻ tâm đầu ý hiệp,
Mến những ai biết kiếm Đạo mầu.
Cảnh Tây Thiên báu ngọc đầy lầu,
Rán tu tỉnh tìm nơi an dưỡng.
Kẻ hiền-đức sau nầy được hưởng,
Phép thần linh của Đức Di Đà.
Lại được thêm thoát khỏi Ta Bà,
Khỏi luân-chuyển trong vòng Lục Đạo.
Đức Diêm Chúa yêu người hiền thảo,
Trọng những ai biết niệm Di Đà.
Lại được gần Bệ Ngọc Long Xa,
Coi chư quốc tranh giành châu báu.
Trai nhỏ tuổi kính thành trưởng lão,
Gái bé thơ biết trọng tuổi già.
Rán tỉnh tâm dẹp được lòng tà,
Thì được thấy Phật, Tiên, Thần, Thánh.
Việc hung dữ hãy nên xa lánh,
Theo gương hiền trau sửa làm người.
Sau tà tinh ăn sống nuốt tươi,
Mà bá tánh chẳng lo cải thiện.
Miệng dương thế hay bày nói huyễn,
Sách Thánh Hiền dạy đạo làm người.
Khuyên chúng sanh niệm Phật coi đời,
Cõi Hạ giái rồng mây chơi giỡn.
Ở chòm xóm đừng cho nhơ bợn,
Rán giữ gìn phong hóa nước nhà.
Câu tam tùng bọn gái nước ta,
Chữ hiếu nghĩa kẻ trai cho vẹn.
Ghét những kẻ có ăn bỏn xẻn,
Thương những người đói rách lương hiền.
Muốn tu hành thì phải cần chuyên,
Tưởng nhớ Phật chớ nên sái buổi.
Kẻ phú quí đừng vong cơm nguội,
Sau đói lòng chẳng có mà dùng.
Ta yêu đời than thở chẳng cùng,
Mà bá tánh chẳng theo học hỏi.
A Di Đà nhìn xem khắp cõi,
Đặng trông chờ mong mỏi chúng-sanh.
Hiện hào quang ngũ sắc hiền lành,
Đặng tìm kiếm những người hiền đức.
Kẻ tâm trí mau mau tỉnh thức,
Kiếm Đạo mầu đặng có hưởng nhờ.
Chốn hồng trần nhiều cảnh nhuốc nhơ,
Rán hiểu rõ huyền cơ mà tránh.
Chốn tửu điếm ta nên xa lánh,
Tứ đổ tường đừng có nhiễm vào.
Người tránh xa mới gọi trí cao,
Sa bốn vách mang điều nhơ nhuốc.
Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc,
Đức Di Đà truyền mở Đạo lành.
Bởi vì Ngài thương xót chúng sanh,
Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.
Nên khổ lao Khùng không có nại,
Miễn cho đời hiểu đặng Đạo mầu.
Ai muốn tầm Đạo cả cao sâu,
Thì hãy dẹp tánh tình ích kỷ.
Mau trở lại đừng theo tà quỉ,
Tham, Sân, Si chớ để trong lòng.
Phải giữ lòng cho được sạch trong,
Mới thoát khỏi trong vòng bịnh khổ.
Lớp đau chết kể thôi vô số,
Thêm tà ma yêu quái chật đường.
Chốn hồng trần nhiều nỗi thảm thương,
Làm sao cứu những người hung ác.
Khắp thế giới cửa nhà tan nát,
Cùng xóm làng thưa thớt quạnh hiu.
Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắc chiu,
Nay tận diệt lập đời trở lại.
Khắp lê thứ biến vi thương hải,
Dùng phép mầu lập lại Thượng Nguơn.
Việc Thiên Cơ Khùng tỏ hết trơn,
Cho trần hạ tường nơi lao lý.
Lão nào có bày điều ma mị,
Mà gạt lường bổn đạo chúng sanh.
Đức Minh Vương ngự chốn Nam Thành,
Đặng phân xử những người bội nghĩa.
Trung với hiếu ta nên trau trỉa,
Hiền với lương bổn đạo rèn lòng.
Thường nguyện cầu siêu-độ Tổ Tông,
Với bá tánh vạn dân vô sự.
Đời Nguơn Hạ nhiều người hung dữ,
Nên xảy ra lắm sự tai ương.
Đức Di Đà xem thấy xót thương,
Sai chư Phật xuống miền dương thế.
Tu kíp kíp nếu không quá trễ,
Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.
Cứu lương hiền chẳng cứu người hung,
Kẻ gian ác đến sau tiêu diệt.
Nay trở lại như đời Trụ Kiệt,
Hãy tu nhơn chớ có tranh giành.
Tuy nghèo hèn mà chí cao thanh,
Được hồi phục nhờ ơn chư Phật.
Hãy thương xót những người tàn tật,
Thấy nghèo hèn chớ khá khinh cười.
Trên Năm Non rồng phụng tốt tươi,
Miền Bảy Núi mà sau báu-quí.
Mặc trai gái trẻ già có nghĩ,
Thì khoan cười tôi rất cám ơn.
Khùng ra đời truyền dạy thiệt hơn,
Chư bổn đạo chớ nên khinh rẻ.
Nay Khùng đã hết già hóa trẻ,
Nên giữa đồng bỗng lại có sông.
Ở Tây Phương chư Phật ngóng trông,
Chờ bá tánh rủ nhau niệm Phật.
Làm nhơn ái ắt tiêu bịnh tật,
Vậy hãy mau tầm Đạo Thích Ca.
Phật tại tâm chớ có đâu xa,
Mà tìm kiếm ở trên Non Núi.
Chúng đục đẽo những cây với củi,
Đắp xi măng sơn phết đặt tên.
Ngục A Tỳ dựa kế một bên,
Chờ những kẻ tu hành giả dối.
Khuyên sư vãi mau mau cải hối,
Làm vô vi chánh Đạo mới mầu.
Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,
Hãy tìm kiếm cái không mới có.
Ngôi Tam Bảo hãy thờ Trần Đỏ,
Tạo làm chi những cốt với hình.
Khùng nói cho già trẻ làm tin,
Theo Lục Tổ chớ theo Thần Tú.
Khuyên bổn đạo chớ nên mê ngủ,
Thức dậy tìm Đạo chánh của Khùng.
Đặng sau xem liệt quốc tranh hùng,
Được sanh sống nhờ ơn Chín Bệ.
Hóa phép lạ biết bao mà kể,
Chín từng mây nhạc trổi tiêu thiều.
Kẻ tà gian sau bị lửa thiêu,
Người tu niệm sống đời thượng cổ.
Khùng vưng lịnh Tây Phương Phật Tổ,
Nên giáo truyền khắp cả Nam Kỳ.
Hội Long Hoa chọn kẻ tu mi,
Người hiền đức đặng phò chơn Chúa.
Khuyên những kẻ giàu sang có của,
Hãy mở lòng thương xót dân nghèo.
Cảnh vinh-hoa lại quá cheo leo,
Nhà giàu có sau nhiều tai ách.
Hỡi bá tánh rừng sâu có mạch,
Tuy u minh mà có đền vàng.
Lịnh Quan Âm dạy biểu Khùng troàn,
Cho bổn đạo rõ nguồn chơn lý.
Lũ thầy đám hay bày trò khỉ,
Mượn kinh luân tụng mướn lấy tiền.
Chốn Diêm Đình ghi tội liên miên,
Mà tăng chúng nào đâu có rõ.
Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mõ,
Từ xưa nay có mấy ai thành?
Phật từ bi độ tử độ sanh,
Là độ kẻ hiền lương nhơn ái.
Xá với phướn là trò kỳ quái,
Làm trai đàn che miệng thế gian.
Kẻ vinh hoa phú quí giàu sang,
Mướn tăng chúng đặng làm chữ hiếu.
Thương bá tánh vì không rõ hiểu,
Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn tròn.
Thấy lạc lầm đây động lòng son,
Khuyên bổn đạo hãy nên tỉnh ngộ.
Ở dương thế tạo nhiều cảnh khổ,
Xuống huỳnh tuyền Địa Ngục khảo hình.
Tuy lưới Trời thưa rộng thinh thinh,
Chớ chẳng lọt những người hung ác.
Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác,
Quỉ Vô Thường dắt xuống Diêm Đình.
Sổ sách kia tội phước đinh ninh,
Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ.
Tìm Cực Lạc đây rành đường ngõ,
Hãy mau mau tu tỉnh mới mầu.
Tận thế gian còn có bao lâu,
Mà chẳng chịu làm tròn nhơn đạo.
Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo,
Mở lòng nhơn tiếp rước mới là.
Làm hiền lành hơn tụng hơ hà,
Hãy tưởng Phật hay hơn ó ré.
Đã chánh Đạo thêm còn sức khỏe,
Đặng nuôi cha dưỡng mẹ cho tròn.
Vẹn mười ơn mới đạo làm con,
Lúc sanh sống chớ nên phụ bạc.
Nếu làm đám được về Cực Lạc,
Thì giàu sang được trọn hai bề.
Ỷ tước quyền làm ác ê hề,
Khi bỏ xác nhiều tiền lo lót.
Kinh với sám tụng nghe thảnh thót,
Lũ nhưn bông tập luyện đã rành.
Đẩu với đờn, kèn, trống nhịp sanh,
Làm ăn rập đặng đòi cao giá.
Tâm trần tục còn phân nhơn ngã,
Thì làm sao thoát khỏi luân hồi.
Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý.
Xưa Thần Tú bày điều tà mị,
Mà dắt dìu bá tánh đời Đường.
Thấy chúng sanh lầm lạc đáng thương,
Cõi Âm Phủ đâu ăn của hối.
Đúc Phật lớn chùa cao bối rối,
Mà làm cho Phật Giáo suy đồi.
Tu Vô Vi chớ cúng chè xôi,
Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót.
Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt,
Nên bày ra cúng kiếng hoài hoài.
Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai,
Cúng với lạy khó trừ cho đặng.
Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng,
Không cầu siêu Phật bỏ hay sao?
Lập trai đàn chạy chọt lao xao,
Bôi lem mặt làm tuồng hát Phật.
Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất,
Vậy hãy mau bỏ bớt dị đoan.
Rán giữ gìn luân lý tam cang,
Tròn đức hạnh mới là báu quí.
Nay gần đến long phi xà vĩ,
Cảnh gian nan bá tánh hầu kề.
Thấy chúng sanh còn hỡi say mê,
Khùng chỉ rõ đường tà nẻo chánh.
Ta là kẻ vô hình hữu ảnh,
Ẩn xác phàm gìn đạo Thích-Ca.
Làm gian ác là quỉ là ma,
Làm chơn chánh là Tiên là Phật.
Hiếm những kẻ không nhà không đất.
Mà sang giàu chẳng xót thương giùm,
Có lỡ lầm chưởi mắng um-sùm,
Thêm đánh đập khác nào con vật.
Ăn không hết lo dành lo cất,
Đem bạc trăm cúng Phật làm chi?
Phật Tây phương vốn tánh từ bi,
Đâu túng thiếu mà quơ mà tởi.
Khùng cả tiếng kêu dân ơi hỡi,
Hãy giúp cho kẻ đói mới nhằm.
Đến loạn ly khổ hạnh khỏi lâm,
Còn hơn đúc chuông đồng Phật bự.
Chẳng làm phước để làm hung dữ,
Rồi vào chùa lạy Phật mà trừ.
Phật Tây phương có lẻ hiểu dư,
Dụng tâm ý chớ không dụng vật.
Muốn bổn đạo tánh tình chơn chất,
Rèn lòng hiền thương xót lẫn nhau.
Kể từ rày vàng lộn với thau,
Phật, Tiên, Thánh, cùng nhau xuống thế.
Cứu bá tánh không cần lễ mễ,
Để dắt dìu đạo lý rành đường.
Nước Nam Việt nhằm cõi Trung Ương,
Sau sẽ có Phật Tiên tại thế.
Khuyên sư vãi bớt dùng của thế,
Gắng công tu đặng có xem đời.
Tu thật tâm thì được thảnh thơi,
Tu giả dối thì lao thì lý.
Khùng khuyên hết kẻ ngu người trí,
Rán tỉnh tâm suy nghĩ Đạo mầu.
Chuyện huyền cơ bí hiểm cao sâu,
Hãy nghiệm xét hai đường tà chánh.
Các chư Phật không khi nào rảnh,
Tâm từ bi vẫn nhớ chúng sanh.
Các chư Thần tuần vãng năm canh,
Về Thượng giái tâu qua Thượng Đế.
Sổ tội ác thì vô số kể,
Còn làm nhơn thì quá ít oi.
Hội công đồng xem xét hẳn hòi,
Sai chư tướng xuống răn trần thế.
Đau nhiều chứng dị kỳ khó kể,
Sắp từ nay lao khổ đến cùng.
Kẻ dương gian khó nổi thung dung,
Người bạo ác không toàn tánh mạng.
Đường đạo lý chớ nên chán nản,
Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm.
Phật Tây phương thiệt quá xa xăm,
Phải tìm kiếm ở trong não trí.
Sau đến việc sơn băng kiệt thủy,
Khùng thảm thương bá tánh quá chừng.
Nhìn xem trần nước mắt rưng rưng,
Cảnh áo não kể sao cho xiết.
Ta dạy dỗ là vì tình thiệt,
Cho bá gia rõ biết người Khùng.
Thấy dương trần làm dữ làm hung,
Nên khuyên nhủ cho người lương thiện.
Chữ Lục Tự trì tâm bất viễn,
Thì lâm nguy có kẻ cứu mình.
Ai lòng nhơn hoặc chép hay in,
Mà truyền bá đặng nhiều phước đức.
Trong bá tánh từ nay buồn bực,
Khùng yêu dân chỉ rõ Đạo mầu.
Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,
Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp.
Việc biến chuyển Thiên Cơ rất gấp,
Khuyên chúng-sanh hãy rán tu hành.
Cầu linh hồn cho được vãng-sanh,
Đây chỉ rõ đường đi nước bước.
Hãy tưởng Phật đừng làm bạo ngược,
Ta phần hồn dạo khắp thế-gian.
Vào xác trần nước mắt chứa-chan,
Khắp lê thứ nghe lời thì ít.
Chốn sơn-lãnh bây giờ mù mịt,
Cho nên dân dạy chẳng nghe lời.
Kể từ nay nói chuyện chiều mơi,
Chớ chẳng nói dông dài khó hiểu.
Cờ đã thất còn chờ nước chiếu,
Mà còn ăn con chốt làm chi?
Ai là người quân tử tu mi?
Phải sớm xử thân mình cho vẹn.
Chừng lập Hội khỏi thùa khỏi thẹn,
Với Phật Tiên cũng chẳng xa chi.
Lời cao siêu khuyên hãy gắn ghi,
Ta ra sức dắt dìu bá tánh.
NAM MÔ TAM GIÁO QUI NGUƠN
PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH A DI ĐÀ PHẬT
BỬU ngọc vãng lai rõ Đạo mầu,
SƠN tầm hạnh Thích nẻo cao sâu.
KỲ giả thức tâm tìm Đạo lý,
HƯƠNG tuyệt đăng lui bãi phục cầu.